Lịch
sử hình thành làng xã và quá trình xây dựng di tích được phản ánh khá rõ nét
trong nội dung tấm bia có niên hiệu Tự
Đức 31 (1787), gia phả họ Lưu ở thôn Thanh Khiết, họ Nguyễn ở thôn Đan phượng
cùng nhiều dòng họ khác và truyền thuyết tại địa phương thì những năm đầu thế
kỷ thứ XVII do chính sách phát triển kinh tế mở rộng đất đai canh tác của triều
đình phong kiến nhà Lê Trung Hưng nên buổi đầu về đây lập ấp có các ông tổ từ
mảnh đất Đan Phượng (Hà Tây) thuộc các dòng họ: Họ Lưu, Nguyễn, Phạm, Vũ, Trần,
Hoàng…tại đây các ông tổ đã mộ thêm dân nghèo các nơi về cùng quai đê lấn biển.
Qúa trình đấu tranh với thiên nhiên để cùng tồn tại và sản xuất đã dẫn đến sự
phân bố dân cư, lúc này người dân còn dựa vào những gò cát để sinh sống, dần
dần tỏa ra chiếm chân sóng và tỏa đi xây dựng làng mạc xung quanh. Công cuộc
quai đê lấn biển, cải tạo đồng ruộng của các ông tổ các dòng họ diễn ra khẩn
trương đã thu hút thêm nhiều dòng họ khác từ nhiều miền quê về đây mở đất. Ban
đầu người dân chủ yếu sống bằng nghề đánh bắt tôm cá sau làm muối để sinh sống.
Sau
bao năm tháng đấu tranh gian khổ với thiên nhiên khắc nghiệt nơi miền đất mới,
ông tổ các dòng họ xây dựng nên những xóm làng đông vui trù phú. Để ghi nhớ
thành quả lao động của mình đồng thời để tưởng nhớ tới những miền quê cũ dân
làng liền đặt tên cho miền đất mới là Đan Phượng.
Trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945 Đan Phượng
là một xã độc lập thuộc tổng Hoành Nha, Hải Huyệt Tam, huyện Giao Thủy, tỉnh
Nam Định. Cách mạng tháng Tám thành công các đơn vị hành chính cũ đều thay đổi
cho phù hợp với tình hình mới, lúc này thôn Đan Phượng, Liên Trì và Thanh Khiết
được hợp nhất lấy tên là xã Hải Yến. Năm 1956 xã Hải Yến được đổi tên thành xã
Giao yến huyện Giao Thủy, tỉnh Nam
Định.
Đình
Đan Phượng thờ Triệu Quang Phục cùng hai vị tướng Nguyễn Phúc và Nguyễn Lộc.
Đây có lẽ cũng là đặc trưng tín gưỡng của cư dân vùng ven biển nói chung và
Giao thủy nói riêng. Thờ Triệu Quang Phục không đơn thuần là thờ vị vua có công
giải phóng dân tộc mà còn trở thành một vị thần bảo hộ cho công cuộc làm ăn của
dân làng đặc biệt là với ngư dân.
Công
trình kiến trúc đình chùa Đan Phượng được xây dựng trong một không gian, tổng
thể hoàn chỉnh với nhiều gian, nhiều tòa lớn nhỏ. Tại đây còn lưu giữ được
nhiều đồ thờ tự: tượng pháp, sắc phong do vậy đã làm tăng thêm giá trị nghệ
thuật cho di tích.
Mặt trước chùa Đan Phượng
Đình
Đan Phượng được xây dựng trên một khu đất rộng 1880 m2, mặt quay về
hướng Nam, bên trái là đường liên thôn trải nhựa, bên phải là khu dân cư; bao
quanh di tích còn có hệ thống tường bao bảo vệ.
Nghi
môn trước đình được xây dựng khang trang bề thế với 3 cổng ra vào. Cổng giữa là hai đồng trụ xây cao trên 5
m đỉnh trụ đắp nghê chầu, nối hai đồng
trụ với nhau là họa tiết “lưỡng long chầu nguyệt” tạo thành bức cửa võng. Hai
cổng bên xây thấp hơn theo kiểu chống diêm hai lớp lợp giả ngói ống.
Tòa tiền đường được phục dựng từ năm 1986 gồm
5 gian xây cuốn gắn ngói nam hai đầu hồi xây bít đốc. Tiếp theo là 5 gian trung
đường. Đứng từ xa nhìn lại tòa trung đường đình Đan Phượng nổi bật hẳn nên bởi
5 tòa lầu gác làm theo kiểu hai tầng tám mái lợp giả ngói ống. Tòa lâu gác
chính giữa xây cao hơn, cổ đẳng nhấn 3 chữ Hán “Nhật nguyệt chiếu”. tại tòa
trung đường, để tạo sự linh thiêng nghệ nhân khéo léo tập trung đặc tả họa tiết
“hổ phù” cùng các lớp cửa võng và hệ thống câu đối lòng máng.
Tòa
cung cấm được xây theo kiểu cổ đẳng uốn vòm hai lớp mái, công trình gồm hai
gian: gian ngoài thờ công đồng, gian trong là nơi thờ Đức thánh Triệu Việt
Vương. Ngăn cách gian ngoài với gian trong là 3 khuông cửa. Sự đan xen giữa hai
chất liệu gạch và vữa và các mảng chạm khắc cùng hệ thống cưả gỗ đã tạo cho nơi
thờ tự thêm hài hòa cân đối.
Nằm
cách đình khoảng hơn 100 m về phía bắc là ngôi chùa Đan phượng còn có tên chữ
là “Linh Sơn tự”. Trước chùa là cánh đồng lúa và con sông Bạch ra nối từ chợ Bể
tới sông Thức Hóa (Giao Thịnh). Với không gian thoáng đãng, có nhiều cây ăn
quả, cây bóng mát xanh tốt quanh năm tạo cho di tích một không khí yên tĩnh
trong lành.
Chùa
Đan Phượng xây theo kiểu chữ Đinh gồm bái đường 5 gian, tam bảo 3 gian, bên
cạnh đó còn có những công trình phủ mẫu, nhà tổ, đền thờ anh hùng Trần Hưng Đạo
và hệ thống nhà khách tạo thành một tổng thể khép kín.
Đan
Phượng là một miền quê còn lưu giữ được nhiều nét sinh hoạt văn hóa dân gian
đặc sắc. Hằng năm tại Di tích Đình chùa Đan Phượng đã diễn ra nhiều ngày lễ,
ngày giỗ liên quan đến những nhân vật lịch sử thờ tại di tích như ngày hóa của
Triệu Việt Vương (13/8 âm lịch) được tổ chức tại đình, ngày lễ vu lan (15/7 âl),
ngày Phật Đản (14/4 âm lịch) được tổ chức tại
chùa. Bên cạnh nội dung tế lễ quen thuộc thì tại lễ hội đình chùa Đan Phượng
còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian như: Leo cầu ngô, tổ tôm điếm, cờ người,
đấu vật, kéo co. Nhưng nổi tiếng và thu hút sự động viên theo dõi của đông đảo
nhân dân vẫn là trò chơi “vật cầu” và đi cà kheo.
Đình
chùa Đan Phượng còn là địa điểm ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng của địa
phương. Mặc dù bị kìm kẹp trong sự khủng bối gắt gao của địch, di tích luôn là
cơ sở an toàn cho cán bộ, Đảng viên về hot động, chỉ đạo phong trào Cách mạng
tại địa phương. Điều đó càng tô đậm thêm truyền thống tốt đẹp của nhân dân và
góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân
tộc.
Ngày
6/1/194 đình Đan Phượng là địa điểm tổ chức bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước
Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Năm
1947 đội tự vệ của xã được thành lập, ngoài nhiệm vụ lao động sản xuất, đội
thường xuyên lấy địa điểm đình chùa Đan Phượng làm nơi luyện tập tuần tra canh
gác sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương.
Tháng
5 năm 1948 huyện Giao Thủy tổ chức Đại hội Đảng đầu tiên tại đình Đan Phượng,
lực lượng dân quân du kích của xã được giao nhiệm vụ bảo vệ cho hội nghị.
Giai
đoạn từ tháng 10 năm 1949 đến tháng 2/1952 đây là thời kỳ đấu tranh hết sức khó
khăn gian khổ đối với phong trào Cách mạng của tỉnh Nam Định. Lịch sử địa
phương gọi đây là giai đoạn “hai năm bốn tháng”. Trong điều kiện địa phương
thành vùng bị địch tạm chiến song đình chùa Đan Phượng vẫn là cơ sở bí mật cho
cán bộ Đảng viên về hoạt động và chỉ đạo phong trào đấu tranh. Nhân dân trong
làng cùng sư cụ Tự Chính Chương trụ trì chùa Linh Sơn trực tiếp đào hầm nuôi
giấu cán bộ.
Năm
1953 thực dân Pháp cho nhiều tốp máy may ném bom xuống làng Đan Phượng, đình
Đan Phượng cũng bị hư hỏng nặng.
Ngày
25/5/1954 lực lượng chủ lực của trung đoàn 52 sư đoàn 320 cùng bộ đội huyện
Giao Thủy, dân quân du kích các xã Hải Yến, Giao lâm, Giao Tân…được lệnh tấn
công tiêu diệt bốt Thức Khóa, một căn cứ kiên cố của địch trên địa bàn huyện.
Sau một loạt đạn mở đầu , toàn bộ quân địch tại đây đã bỏ súng quy hàng.
Từ sau
hòa bình lặp lại đến những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước đình chùa Đan
Phượng là nơi tập kết lương thực, kho chúa vũ khí của đơn vị chủ lực 807 của
quân khu III.
Từ những giá trị tiêu biểu về lịch sử- văn hóa nghệ thuật trên đây, đình-chùa Đan Phượng đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Đây chính là nguồn động viên tinh thần lớn lao đối với nhân dân huyện Giao Thủy nói chung và con em xã Giao Yến nói riêng, đồng thời cũng khích lệ địa phương bảo tồn và phát huy giá trị của văn hóa ngày càng tốt hơn
Phòng Văn hóa- Thông tin huyện Giao Thủy