Di tích lịch sử văn hóa Đình- chùa Tiên Chưởng xã Giao Châu huyện Giao Thủy
Theo gia phả dòng họ Đỗ hiện còn lưu giữ tại viện
nghiên cứu Hán Nôm cùng truyền thuyết tại địa phương, thì buổi đầu về đây lập
ấp có các dòng họ: Cao, Trần, Đỗ, Nguyễn. Các dòng họ tìm về vùng đất này từ
nhiều nơi trong và ngoài tỉnh như dòng họ Đỗ đến từ làng Chưởng tỉnh Hà Tây, họ
Cao xuồng từ Hà Nam, họ Trần đến từ tỉnh Hà Tây. Mặc dù các dòng họ đến từ
nhiều nơi song đều có chung một mụch đích xây dựng làng quê mới ở vùng đất bồi
có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế lâu dài. Tại đây ông tổ các dòng họ tiến
hành bỏ công góp của mộ thêm dân nghèo các nơi về cùng quai đê lấn biển, san gò
lấp trũng, Công cuộc quai đê lấn biển, cải tạo đồng ruộng của 4 dòng họ diễn ra
khẩn trương thu hút nhiều nhân lực đã tạo tiền đề cho 4 dòng họ: Đào, Mai. Lê,
Phạm cùng về góp công sức.
Qua bao năm tháng đấu tranh, gian khổ với thiên nhiên
khắc nghiệt nơi miền đất mới, các dòng họ đã tạo nên cách đồng phì nhiêu, màu
mỡ.
Căn cứ vào nội dung các đạo sắc phong có niên đại Cảnh
Hưng thứ 44 (1783), đến Khải Định 9 (1924) hiện còn lưu giữu tại đình và truyền
thuyết tại địa phương thì mảnh đất làng Tiên Chưởng được hình thành từ năm Kỷ
tỵ đời vua Lê Thần Tông (1629). Ban đầu mảnh đất được bồi đắp kéo dài, uốn lượn
giống hình cánh tay một nàng tiên, dựa vào địa thế đó tiền nhân mới đặt tên cho
mảnh đất mới khai phá là Tiên Chưởng.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Tiên Chưởng là một
xã độc lập thuộc tổng Hoành Nha, Hải huyệt tứ huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Cách
mạng tháng Tám thành công các đơn vị hành chính đều thay đỏi cho phù hợp với
tình hình mới của cách mạng. Lúc này thôn Tiên Chưởng cùng với thôn Duyên Thọ,
Sa Châu lập thành xã Thọ Tiên Châu. Từ năm 1958 đến nay thôn Tiên Chưởng thuộc
xã Giao Châu huyện Giao Thủy.
Đình Tiên Chưởng
xã Giao Châu, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
(nằm sát trục đường 56 nối trung
tâm huyện với khu Du lịch nghỉ mát Quất Lâm
Đình chùa Tiên Chưởng thờ Triệu Việt Vương cùng hai vị
tướng Nguyễn Phúc, Nguyễn Lộc.
Đình Tiên Chưởng được xây dựng trên một khu đất rộng
khoảng 3 sào bắc bộ. Đình quay về hướng bắc, trước mặt là cánh đồng lúa, bên
trài là đường liên thôn rải nhựa, bên phải là khu dân cư, xung quanh di tích có
tường bao bảo vệ.
Nghi môn trước đình được xây dựng bề thế với 3 cổng ra
vào. Cổng giữa được xây cao rộng theo kiểu “cổ đẳng” hai tầng tám mái với các
đao góc uốn cong mềm mại. Cổ đẳng nối mái tầng 1 với tầng 2 được đắp nổi chữ
Hán “Hiển chính môn” (cửa chính sáng tỏ). Hai cổng bên được xây thấp hơn cũng
mang phong cách cuốn vòm tám mái. Nối liền với Nghi Môn có 2 đồng trụ cao trên
7 m, đỉnh cột đắp trang trí họa tiết “phượng lật”, thân trụ tạo đường khoét
lòng nhấn câu đối bằng chữ Hán.
Mặt trước đình Tiên Chưởng
Đình được xây dựng theo kiểu chữ đinh bao gồm tiền đường
5 gian, trung đường 3 gian và hậu cung 2 gian.
Tiền đường có kích thước dài 13 m, rộng 3,9m, gian
giữa lắp dựng 4 gian cửa bức bàn, hai gian bên tạo cửa khép kiểu bức bàn, hai
gian giáp đốc xây tường ngoài hiên vẽ họa tiết chữ Thọ.
Bộ khung tòa Tiền đường được gia công theo kiểu “giá
chiêng, mê cốn trốn cột”, chịu lực chính là 4 cây cột cái có đường kính 0,30m,
tạo dáng búp đòng thanh thoát được đặt trên 4 chân tảng đá thắt cổ bồng cao 30
cm. Nối từ cột cái ra đầu cột hiên là hệ thống xà đinh dài 2,3m được soi chỉ
kép tạo dáng má chai truyền thống. Gian giữa treo bức đại tự có niên hiệu Canh
Ngọ (1930) “Thánh cung vạn tuế” (Chúc thánh muôn tuổi).
Tòa trung đường và cung cấm được xây quay dọc giao mái
với tiền đường. Bộ mái của công trình bắt vần với nhau mềm mại khéo léo bời vì
đã được nghệ nhân sử dụng hệ thống kẻ xối, do ảnh hưởng của trận ném bom mỹ năm
1967 toàn bộ tòa trung đường với hệ thống cột lim đã bị phá hủy hoàn toàn, nhân
dân địa phương đã tiến hành tu sửa thay thế bằng các cột gạch cuốn tròn đỡ mái.
Tòa cung cấm gồm hai gian, gian ngoài rộng 2,2m, gian
trong cùng rộng 2,4 m được xây vượt trội theo kiểu hai tầng tám mái, lợp ngói
nam với các đầu đao uốn cong. Ngăn cách giữa gian thứ nhất với gian thứ hai là
bức tường xây cuốn, có 3 khoang kích thước rộng 1m theo kiểu kèo đỡ hệ thống
hoành mái. Gian trong của tòa cung cấm đặt yên vị tượng, khám thờ đức thánh
Triệu Việt Vương, gian bên ngoài thờ ngai của của 2 tướng Nguyễn Lộc và Nguyễn
Phúc.
Nằm cách đình Tiên Chưởng trên 200m về phía đông là
ngôi chùa Tiên Chưởng còn có tên gọi là: “Tiên Bảo Tự”.
Mặt trước chùa Tiên Chưởng
Tam quan thiết kế kiểu 2 tầng tám mái được xây dựng về
phía bên trái quay ra hướng đông, bên cạnh con đường vào chùa. Hai tầng trên tam
quan là gác chuông có tám mái lợp ngói nam, trên đó hiện treo quả chuông đồng
đúc năm Đinh Sửu. Tầng dưới cổng xây cuốn vành mai với những đường nét uốn lượn
hài hòa. Bao loan cách tầng trên với tầng dưới là dãy lan can có ô thoáng, trong các ô có trang
trí đề tài hoa lá cách điệu.
Chùa Tiên Chưởng được xây dựng theo kiểu chữ đinh gồm
tiền đường 3 gian, tam bảo 3 gian. Tòa Tiền đường được xây theo lối cuốn vòm
với hệ thống hiên rộng có 5 khuông cửa cuốn theo hình bán nguyệt. Hai bên đầu
hồi Tiền đường có hai cột hoa biểu cao trên 5 m đỉnh cột đắp trang trí búp sen,
lồng đèn bên trong đắp nổi họa tiết rồng chầu phượng vũ. Tuy 3 gian Tiền đường
đều xây cuốn, nối giữa các cột với nhau là vì kèo giả gỗ làm bằng chất liệu xi
măng cốt thép nhưng đường nét ý tưởng của nhà thiết kế vẫn tuân theo ý tưởng
vốn có trong kiến trúc cổ của dân tộc.
Tòa Tam bảo gồm 3 gian được xây quay dọc nối với Tiền
đường cũng theo phong cách cuốn vòm. Chịu lực chính là 4 cột bê tông đường kính
40 cm, trên đỉnh cột trang trí hình lục lăng đỡ vòm cuốn. Trên Tam bảo có 5 lớp
tượng thờ được đặt trên bệ xây từ cao xuống
thấp. Phía sau Tam bảo qua một khoảng sân rộng là nhà tổ và phủ thờ mẫu.
Hằng năm tại di tích Đình-chùa Tiên Chưởng đã diễn ra
nhiều ngày lễ, ngày giỗ liên quan đễn những sự kiện và nhân vật lịch sử thờ tại
di tích như ngày hóa của Đức thánh Triệu Việt Vương (14/8 âl lịch) được tổ chức
tại đình, ngày lễ Vu lan (15/7 âl), ngày lễ phật Đản (15/4 âl) được tổ chức tại
chùa. Trong tất cả những lễ hội nêu trên, còn có một lễ hội mang tính đặc trưng
tiêu biểu cho cư dân nông nghiệp lúa nước. Đó là lễ hội “hạ điền” hay còn gọi
là lễ “xuống đồng” được dân làng tổ chức long trọng vào ngày 14/6 âm lịch hàng
năm. Đây là nghi lễ phản ánh tục cầu mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp
lúa nước, trong ngày lễ diễn ra nhiều nghi thức quan trọng như: nghi thức tế lễ
thần hoàng, thần nông, nghi thức cấy lúa.
Ngoài việc thờ tự phục vụ đời sống tâm linh thì trong
giai đoạn kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ di tích đình chùa Tiên Chưởng
còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.
Năm 1925 nhân dân tập trung tại khu giải vũ của đình,
đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến đòi được 64 mẫu ruộng về tay nhân dân.
21/8/1945 tại đình Tiên Chưởng, ủy ban lâm thời của xã
được thành lập do ông Cao Danh Hinh làm chủ tịch. Trong thời gian này hưởng ứng
lời kêu gọi của chính phủ và hồ Chủ tịch nhân dân trong xã tích cực tham gia xóa
nạn mù chữ, đình chùa tiên Chưởng đã giành 5 gian giải vũ để mở các lớp bình
dân học vụ.
Giai đoạn từ tháng 10/1949-2/1952 đây là thời kỳ khó
khăn đối với phong trào Cách mạng của địa phương. Lịch sử Đảng bộ huyện gọi là
giai đoạn “2 năm bốn tháng” chùa Tiên Chưởng thành cơ sở hoạt động bí mật cho
cán bộ về chỉ đạo phong trào, tại đình nhân dân đào hầm bí mật có đường thoát
ra cánh đồng khi gặp đích vây bắt.
Tháng 1/1952 đình chùa Tiên Chưởng là nơi đón tiếp sư
đoàn quân khu III do đồng chí Dũng chỉ huy về tham gia giệt tề.
Từ sau hòa bình lặp lại, cho đến những năm kháng chiến
chống Mỹ cứu nước giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975 nhân dân địa phương tiếp
tục phát huy truyền thống Cách mạng, phấn đấu thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược
quan trọng là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh giải phóng Miền
nam thống nhất đất nước. Trong những năm 65, 65 đình chùa Tiên Chưởng đã giành
toàn bộ 3 gian Tiền đường để phòng lương thực huyện làm kho chứa thóc. Năm 1964
đình chùa Tiên Chưởng còn là nơi tổ chức
các hội nghị của Đảng bộ xã Giao Châu lần thứ 4.
Với những giá trị về văn hóa, ngệ thuật, lịch sử Cách
mạng đó năm 2003 Đình chùa Tiên Chưởng đã được UBND tỉnh Nam Định cấp bằng di
tích lịch sử cấp tỉnh.
Phòng Văn hóa- Thông tin huyện Giao Thủy